Thứ sáu , Ngày 13 Tháng 06 Năm 2025
Cập nhật lúc: 04/10/2023

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ HỤỆN TRẠNG XÃ PƠNG DRANG,
HUYỆN KRÔNGBUK, TỈNH ĐẮKLẮK

A. KHÁI QUÁT VÈ LỊCH sử HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỀN CỦA HUYỆN KRÔNG BỦK

I.    LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HUYỆN KRÔNG BỦK

Huyện Krông Búk từ khi thành lập đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử và có nhiêu tên gọi khác nhau nhưng cơ bản có 3 tên gọi đặc trưng cho 3 thời kỳ. Thời kỳ Pháp thuộc và kháng chiến chống Pháp với tên gọi là Buôn Hồ, trong kháng chiến chống Mỹ với tên gọi là H4 và sau ngày giải phóng 30/4/1975 đến nay là huyện Krông Búkĩ

Trước Cách mạng tháng tám năm 1945, huyện có tên gọi là Buôn Hồ, địa bàn rộng lớn chiếm phần phía Bắc Cao Nguyên Đắk Lắk, bao gồm phần lớn diện tích của các huyện Krông Búk, Ea HTeo, Krông Năng, Cư M’gar, Ea Súp và một phần huyện Ea Kar ngày nay. Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược địa giới hành chính của huyện có sự thay đổi nhưng về cơ bản vẫn không thay đổi nhiều.

Sau năm 1975, quận Buôn Hồ chuyển thành huyện Krông Búk; ban đầu huyện bao gồm 24 xã: Bình Thuận, Cư Bao, Cư Né, Cư Suê, Cuôr Đăng, Dliê Ya, Dliê Yang, Đoàn Kết, Ea Drông, Ea H’dinh, Ea H'leo, Ea Hồ, Ea Khăl, Ea Pốk, Ea Sol, Ea Súp, Ea Tóh, Ea Tul, Krông Na, Pơng Drang, Quảng Phú, Tam Giang và Thống Nhất (theo Dư địa chí tỉnh ĐắkLắk năm 2015).

Ngày 30/08/1977, tách 8 xã: Ea Pốk, Quảng Phú, Ea H’Dinh, Ea Súp, Krông Na, Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea Tul để thành lập huyện Ea Súp (nay các xã này thuộc các huyện Ea Súp, Cư M'gar và Buôn Đôn); huyện Krông Búk còn lại 16 xã (theo Quyết định số 230-CP ngày 30/8/1977 của Chính phủ).

Ngày 20/04/1978, thành lập 4 xã: Krông Năng, Phú Xuân, Cư Pơng, Phú Lộc; từ đó, huyện Krông Búk có 20 xã (Quyết định số 72-CP ngày 20/4/1978 của Chỉnh phủ).

Ngày 03/04/1980, tách 4 xã: Ea Sol, Ea H'leo, Ea Khăl, Dliê Yang để thành lập huyện Ea H'leo; huyện Krông Búk còn lại 16 xã (Quyết định số 1Ỉ0-CP ngày 03/4/1980 của Chính phủ).

Ngày 17/01/1984, chia xã Đoàn Kết thành 3 đơn vị hành chính lấy tên là xã Đoàn Kêt, xã Ea Blang và thị trấn Buôn Hồ. Từ đó, huyện Krông Búk có thị trấn Buôn Hồ và 17 xã (theo Quyết định số 13-HĐBT ngày 17/01/1984 của Hội đồng Bộ trưởng).

Ngày 9/11/1987, tách 7 xã: Dliê Ya, Ea Hồ, Ea Tóh, Krông Năng, Phú Lộc, Phú Xuân, Tam Giang để thành lập huyện Krông Năng; huyện Krông Búk còn lại thị trấn Buôn Hồ và 09 xã (theo Quyết định số 212-HĐBT ngày 09/11/1987 của Hội đồng Bộ ưưởng).

Ngày 26/5/1992, thành lập xã Ea Siên trên cơ sở 1.700 ha diện tích tự nhiên với 1.000 nhân khẩu của xã Ea Drông; 950 ha diện tích tự nhiên với 500 nhân khẩu của xã Bình Thuận; 650 ha diện tích tự nhiên với 1.250 nhân khẩu của xã Thống Nhất; 100 ha diện tích tự nhiên của xã Ea Blang (theo Quyết định sổ 313/TCTP ngày 26/5/1992 của Ban Tổ chức cản bộ Chính phủ).

Ngày 27/7/1999, xã Pơng Drang được tách thành 3 xã: xã Chứ Kbô, xã Ea Ngai và xã Pơng Drang còn lại (xã Chứ Kbô diện tích 6.295 ha diện tích tự nhiên và 7.957 nhân khẩu xã Ea Ngai 3.545 ha diện tích tự nhiên và 3.339 nhân khẩu); 04 thôn của Công ty cà phê Buôn Hồ được bàn giao về cho xã Pơng Drang quản lý (theo Nghị định 61/1999/NĐ-CP ngày 27/7/1999 của Chính phủ).

Ngày 16/5/2006, thành lập xã Ea Đê (nay là xã Tân Lập thuộc huyện Krông Búk và phường Đạt Hiếu thị xã Buôn Hồ) trên cơ sở 2.970 ha diện tích tự nhiên và 10.025 nhân khẩu của xã Pơng Drang (theo Nghị định 47/2006/NĐ-CP ngày 16/5/2006 của Chính phủ).

Ngày 27/8/2007, thành lập xã Ea Sin trên cơ sở điều chỉnh 1.809 ha diện tích tự nhiên và 1.649 nhân khẩu của xã Cư Pơng; 4.471 ha diện tích tự nhiên và 1.652 nhân khẩu của xã Cư Né (theo Nghị định 137/2007/NĐ-CP ngày 27/8/2007 của k Chính phủ). Huyện Krông Búk có 15 đơn vị hành chính gồm thị trấn Buôn Hồ và 14 xã: Bình Thuận, Chứ Kbô, Cư Bao, Cư Né, Cư Pơng, Đoàn Kết, Ea Blang, Ea Đê, Ea Drông, Ea Ngai, Ea Siên, Ea Sin, Pơng Drang và xã Thống Nhất.

Từ ngày 23/12/2008, huyện Krông Búk được điều chỉnh để thành lập thị xã Buôn Hồ. Thị trấn Buôn Hồ và 6 xã: Đoàn Kết, Thống Nhất, Ea Siên, Bình Thuận, Ea Drông, Cư Bao; 2.950,44 ha diện tích tự nhiên và 6.666 nhân khẩu của xã Ea Blang; 1.336,9 ha diện tích tự nhiên và 7.109 nhân khẩu của xã Ea Đê được tách ra thành lập thị xã Buôn Hồ (theo Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 23/12/2008 của Chỉnh phủ).

Sau khi điều chỉnh, thành lập thị xã Buôn Hồ, huyện Krông Búk còn lại 35.768,54 ha diện tích tự nhiên và 55.733 nhân khẩu với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 7 xã: Cư Né, Cư Pơng, Ea Sin, Chứ KBÔ, Ea Ngai, Pơng Drang và xã Tân Lập (đổi tên từ xã Ea Đê).

II.    VỊ TRÍ ĐỊA LÍ VÀ ĐIỀU KIỆN Tự NHIÊN HUYỆN KRỒNG BỦK

1.   Vị trí địa lý

-                   Huyện Krông Búk nằm về phía Đông bắc tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành

phố Buôn Ma Thuột 60 km theo Quốc lộ 14; có tổng diện tích tự nhiên 357,68 km2, với 7 đơn vị hành chính; có ranh giới với các huyện như sau: Phía Đông giáp huyện Krông Năng; phía Tây giáp huyện Cư M’gar; phía Nam giáp thị xã Buôn Hồ và phía Bắc giáp huyện Ea H’leo.

Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của tỉnh, giáp thị xã Buôn Hồ, trên trục Quốc lộ 14, nối huyện Krông Búk với thành phố Buôn Ma Thuột và thành phố Pleiku; cách sân bay Buôn Ma Thuột khoảng 60 km, giao lưu thuận tiện với các tỉnh Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và cả nước. Đây chính là điều kiện khá thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

2.    Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

2.1.    Địa hình và đất đai

-    Địa hình: Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và chia ra làm 3 dạng chính sau: Địa hình đồi núi thấp, trung bình: phân bố khu vực phía Tây đường Quốc lộ 14 thuộc lưu vực suối Ea Súp; có độ dốc trung bình 15- 20°. Địa hình đồi thoải: nằm ở khu vực phía Đông đường Quốc lộ 14 thuộc lưu vực sông Krông Búk; chia cắt nhẹ, độ dốc trung bình 8- 15°. Địa hình đồng bằng thấp trũng', tập trung ven hai bên các sông suối lớn, độ dốc nhỏ hơn 8°, đã được khai hoang trồng lúa nước.

-    Đất đai: Huyện Krông Búk có 05 nhóm đất chính, trong đó nhóm đất đỏ vàng chiêm 98,73% diện tích tự nhiên, phân bố tương đối đồng đều ở hầu hết các xã; đất có phì nhiêu cao, giàu chất hữu cơ, thành phần cơ giới nặng, đất có phản ứng chua pHkcl<5,5, thuận lợi phát triển cây cà phê, cao su, tiêu, sầu riêng,..

2.2.    Khí hậu: Chế độ khí hậu của khu vực mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc điểm rất đặc trưng của chế độ nhiệt đới gió mùa cao nguyên, về khí hậu thuỷ văn khu vực Krông Búk có một số khác biệt so với các khu vực khác, nhưng nhìn chung điều kiện thời tiết khí hậu khá thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp, tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều, vào các tháng mùa mưa thừa nước, gây xói mòn mạnh ở những vùng đất dốc và ngập úng những vùng thấp trũng.

2.3.    Thuỷvăn:

-    Nước mặt: Trên địa bàn huyện có nhiều suối và họp thủy phân bố tương đối đêu giữa các khu vực, mật độ sông suôi từ 0,90-1,13 km/km2. Chê độ thủy văn được phân làm 2 mùa: Mùa lũ từ tháng 8 đến hết tháng 12, tổng lượng dòng chảy thực đo tại trạm mùa lũ chiếm đến 75% tổng lượng dòng chảy năm, tháng 9 có lượng dòng chảy lớn nhất chiếm 20% lượng dòng chảy năm; mùa kiệt từ tháng 12 đến hết tháng 4 năm sau tổng lượng dòng chảy chỉ chiếm 25% lượng dòng chảy năm do lượng mưa rất nhỏ hoặc không có mưa. Các sông suối chính trong vùng là suối Krông Búk và suối Ea Súp.

-    Nguồn nước ngầm: Đặc điểm địa chất, thủy văn của vùng Krông Búk không đồng nhất theo diện tích và chiều sâu. Độ dày tầng chứa nước dao động từ 60 - 160m, trung bình 100m, và giảm dần từ Bắc xuống Nam. Qua số liệu điều tra thăm dò cho thấy, mức nước ngầm vùng Krông Búk tương đối phong phú, có thể khai thác phục vụ sản xuất nông, công nghiệp và dân sinh, bổ sung cho nguồn nước mặt ở những vùng khó khăn.

2.4.    Tài nguyên rừng: Theo kết quả thống kê năm 2021, diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện chỉ còn 210,17 ha, chiếm 0,59% diện tích tự nhiên, trong đó xã Ea Sin: 91,55 ha, xã Pơng Drang: 30,67 ha và xã Cư Né: 57,68 ha, Chứ Kbô: 29,72 ha, Ea Ngai: 0,55 ha.

2.5.    Tài nguyên khoảng sản: Nguồn tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện không nhiều. Hiện chủ yếu là đá Bazan (xã Chứ Kbô) đã được khai thác phục vụ xây dựng trên địa bàn huyện và là nguyên liệu đầu vào cho nhà máy chế biến đá phục vụ nhu cầu khu vực và xuất khẩu. Ngoài ra, còn có mỏ than bùn quy mô nhỏ ở xã Ea Ngai đã được khai thác, chế biến phân bón hữu cơ vi sinh.

2.6.    Tài nguyên du lịch: Trên địa bàn huyện có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, về phi vật thể có văn hóa lễ hội các dân tộc Tây Nguyên và đồng bào dân tộc phía Bắc định cư trên địa bàn huyện; về vật thể có cảnh quan rừng tự nhiên, suối thác, hồ nước,... Ngoài ra còn một số hồ đập khác trên địa bàn huyện trong tương lai cũng có thể khai thác đưa vào hệ thống các điểm vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi phục vụ Nhân dân trong huyện.

IIL HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA HUYỆN KRÔNG BÚK

1.    Hiện trạng diện tích tự nhiên và dân số huyện Krông Búk

• • “ • • */ • “

k                    1.1. Hiện trạng diện tích tự nhiên: Năm 2021, tổng diện tích tự nhiên 357,68

km2, trong đó đất nông nghiệp: 327,17 km2, chiếm 91,47% diện tích tự nhiên, đất phi nông nghiệp: 29,82 km2, chiếm 8,34% và đất chưa sử dụng: 0,69 km2, chiếm 0,19%.

1.2.   Dân sổ và phân bố dân cư: Dân số của huyện Krông Búk năm 2021 là 66.160 người, với 16.790 hộ; mật độ dân số trung bình 185 người/km2; trong đó đồng bào dân tộc thiểu số 5.388 hộ (dân tộc tại chỗ 5.080 hộ), chiếm 32,09% số hộ toàn huyện. Dân số huyện Krông Búk phân bố tương đối tập trung ở khu vực phía Nam, còn các xã phía Bắc huyện mật độ dân số tương đối thấp.

1.3.    Các đơn vị hành chính trực thuộc: Quá trình phát triển, phân bố dân cư trên địa bàn huyện Krông Búk gắn liền với sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của huyện; hiện nay trên địa bàn huyện Krông Búk có 07 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: Cư Né, Cư Pơng, Ea Sin, Chứ Kbô, Ea Ngai, Pơng Drang và xã Tân Lập.

2.    Thực trạng phát triển kinh tế huyện Krông Búk

2.    ỉ. về phát triển kỉnh tế

Mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nhưng huyện Krông Búk có nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội vẫn đạt, vượt kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2019-2021 ổn định ở mức gần 7,3%; cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, năm 2021 tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 30,82%; nông lâm thủy sản 55,80%; công nghiệp xây dựng 13,38%. Tổng giá trị sản xuất năm 2021 đạt 3.998 tỷ đồng, trong đó thương mại dịch vụ là 1.132 tỷ đồng, tăng 5,91%; công nghiệp 535 tỷ đồng, tăng 22,5%; nông, lâm, thủy sản đạt 2.23ltỷ đồng, tăng 5,31%. Thu ngân sách huyện đạt 78,341 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người khoảng 36,4 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình 3 năm 2019-2021 của huyện là 8,02%.

2.2.     về phát triển ngành, lĩnh vực

a)    Thương mại - dịch vụ: Hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực thương mại dịch vụ đã có bước phát triển khá, mạng lưới cơ sở mua bán hàng hoá đảm bảo

11

cung cấp kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay trên địa bàn huyện đã có 142 doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đang hoạt động, 2.207 hộ kinh doanh được cấp phép với các loại hình kinh doanh chính là thu mua, chế biến nông sản, dịch vụ ăp uông, vận tải, du lịch,... Mạng lưới chợ nông thôn khá phát triển (riêng năm 2021 đưa vào hoạt động chợ Pơng Drang và đang triển khai đầu tư chợ Cư Pơng), đáp ứng được nhu câu mua bán, trao đôi hàng hóa và mở rộng thị trường nông thôn; ngoài ra siêu thị trên địa bàn đã đi vào hoạt động có vài trò cung cấp hàng hóa không những trên địa bàn huyện mà còn có ý nghĩa trên địa bàn các huyện lân cận.

b)     Công nghiệp - xây dựng: Do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nên hoạt động sản xuất công nghiệp - xây dựng trên địa bàn huyện trong những năm gần đây gặp khá nhiều khó khăn về đầu ra sản phẩm và nguồn vốn, một số nhà máy tại Cụm công nghiệp hoạt động câm chừng hoặc tạm dừng sản xuất. Tổng giá trị sản xuất ngành năm 2021 đạt khoảng 535 tỷ đồng. Công tác thu hút đầu tư vào cụm Công nghiệp Krông Búk 1 luôn được chú trọng, hiện hầu hết diện tích đã thỏa thuận vị trí và được ƯBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư; trong đó có 09 dự án đang hoạt động sản xuất, 10 dự án chuẩn bị đầu tư xây dựng, 01 dự án đang tạm dừng sản xuất để chuyển đổi mô hình theo quy định. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 04 dự án năng lượng điện gió đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện để đưa vào vận hành, với tổng vốn đầu tư là 7.878 tỷ đồng.

c)    Sản xuất nông nghiệp: Ngành nông nghiệp trong những năm qua tập trung phát triên theo hướng sản xuât hàng hóa và có những chuyển biến tích cực. Chính quyên địa phương luôn quan tâm đâu tư phát triên các vùng sản xuất trọng điểm, triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ban hành một số cơ chế chính sách mới phù hợp, nên kinh tế nông nghiệp nông thôn đã từng bước phát triển ngày càng thích ứng với nền kinh tế thị trường. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng được nông dân hưởng ứng, năng suất, sản lượng sản phẩm và hiệu quả lao động ngày một cao; hình thành các vùng chuyên canh mang tính hàng hoá, góp phần quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Tổng diện tích gieo trồng câỵ hàng năm năm 2021 là 3.523 ha, với sản lượng lương thực có hạt đạt là 12.234 tấn. Diện tích cây lâu năm hiện có 26.188 ha; trong đó: cà phê 20.650 ha, cao su 2.097 ha, hồ tiêu 1.072 ha, ca cao 3,7 ha, điều 452 ha, cây ăn quả các loại 1.917 ha.

d)   Thu chỉ ngân sách: Công tác thu ngân sách được tập trung chỉ đạo, đạt kết quả đáng khích lệ. Các ngành, địa phương đã tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về thuế và nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách trên địa bàn huyện luôn vượt chỉ tiêu được giao. Chi cân đối ngân sách nhà nước cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của huyện. Việc quản lý ngân sách trong những năm qua đảm bảo được thực hiện tốt và đúng theo quy định tài chính hiện hành.

3.    Thực trạng phát triển văn hóa, xã hội huyện Krông Búk

3.1.    Giảo dục, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp

Sự nghiệp giáo dục của huyện đã có nhiều chuyển biến rõ nét về cả quy mô và chất lượng. Mạng lưới trường lớp ở các cấp học, bậc học từng bước được chuẩn hóa. Đến năm 2021, toàn huyện có 02 trường dạy nghề và 46 trường học, với tổng số 15.383 học sinh, 7/7 xã có trung tâm học tập cộng đồng. Huyện duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đạt chuẩn mầm non cho trẻ 5 tuổi. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được quan tâm đầu tư xây dựng, đã từng bước kiên cố hóa, phòng học cao tầng, đảm bảo nhu cầu dạy và học. Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong các trường học được đẩy mạnh. Tô chức quán triệt, tuyên truyên đên toàn thê cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh các trường học vê việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia luôn được quan tâm thực hiện, hiện toàn huyện có 14 trường đạt chuẩn quốc gia. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề được chú trọng, số lao động được tạo việc làm ngày càng tăng. Bình quân hàng năm đào tạo nghề cho 800-850 lao động và giải quyết việc làm cho trên 1.100 lao động.

3.2.    Phát triền y tế và chăm sóc sức khoẻ

Công tác y tế, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân cơ bản thực hiện tốt. Công tác khám, chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng chính sách được đảm bảo, các Chương trình y tế Quốc gia được triển khai thực hiện, mang lại hiệu quả cao. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố, đã hoàn thành đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng Trung tâm y tế huyện; 07/07 xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Hệ thống y tế đã thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ và Tỉnh ủy, ƯBND tỉnh. Đến cuối năm 2021, đã tổ chức tiêm phòng vaccin Covid-19 cho các đối tượng trên 18 tuổi, tiêm mũi 1 đạt 97%; tiêm mũi 2 đạt 83,5%; đối tượng từ 15-17 tuổi, tiêm mũi 1 đạt 86,2% và đang tiếp tục triên khai tiêm vaccin cho các đối tượng đúng tiến độ và quy định. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đến cuối năm 2021 giảm xuống còn 19,5%. Các chương trình về chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình được phổ biến sâu rộng trong Nhân dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ở mức 1,01% và giảm tỷ suất sinh 0,14%.

3.3.    Văn hoá, thê dục thể thao

Văn hóa, thông tin, thể dục thể thao có chuyển biến tích cực. Toàn huyện có 96 thôn, buôn đạt danh hiệu thôn, buôn văn hóa; 14.028 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá. Các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao được tổ chức đa dạng; tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao huyện và nhiều hội thi, hội diễn, văn nghệ phục vụ Nhân dân trong các dịp lễ, tết; phong trào văn nghệ quần chúng hoạt động sôi nôi, các đội tuyên của huyện đạt được nhiêu thành tích khi tham dự các hội thi do tỉnh tổ chức. Công tác kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa được thực hiện tốt, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc; ứng dụng công nghệ thông tin được quan tâm đẩy mạnh. Hoạt động truyền thanh, truyên hình đã phản ánh kịp thời, bao quát tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, các sự kiện diễn ra trên địa bàn huyện; 07/07 xã đã có đài phát thanh cơ sở, tỷ lệ phủ > sóng đài phát thanh đạt 100%, đài truyền hình đạt 95%.

4.    Thực trạng phát triển hạ tầng kỹ thuật huyện Krông Búk

4.1.    Giao thông: Mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện tương đối đều khắp, thuận tiện cho giao lưu hàng hóa. Trong những năm qua hệ thống giao thông trên địa bàn huyện luôn được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới bằng nguồn vốn nhà nước hô trợ, vôn các thành phần kinh tế và vốn của Nhân dân.

về giao thông đối ngoại có đường Hồ Chí Minh (đường tránh Tây Buôn Hồ); Quôc lộ 14 chạy xuyên suôt theo chiêu dài của huyện, là tuyến giao thông quan trọng của vùng Tây Nguyên, nôi liên các tỉnh Tây Nguyên với Duyên hải Miền Trung và Đông Nam Bộ; Quốc lộ 29 nối cửa khẩu quốc tế Đắk Ruê và cảng biển Vũng Rô của Phú Yên. Ngoài ra, còn có tuyên đường Tỉnh lộ 8, kết nối Krông Búk với huyện Cư M’gar.

về giao thông đối nội, 100% xã có đường nhựa đến trung tâm huyện; 50% đường trục thôn, buôn được cứng hóa; 40% đường ngõ, xóm được cứng hóa, đảm bảo không lây lội vào mùa mưa.

4.2.    Thủy lợi: Toàn huyện có 41 công trình thủy lợi, trong đó: Chi nhánh Thủy lợi Krông Búk quản lý 19 hô đập và 07 hồ chứa nước, 15 công trình còn lại do các tô thủy nông, họp tác xã quản lý và sử dụng; UBND huyện thường xuyên chỉ đạo UBND các xã phôi hợp với Chi nhánh thủy lợi Krông Búk kiểm tra tình hình các hồ đập, công trình thủy lợi để có kế hoạch duy tu, sửa chữa nâng cấp đảm bảo an toàn trước mùa mưa bão. Tổng diện tích cây trồng được tưới hơn 21.700 ha diện tích cây trông chính có nhu câu nước tưới đạt 73,16%. Trong đó tưới trực tiếp từ công trình thủy lợi 3.600 ha, cùng với nguồn nước suối tự nhiên, các ao, hồ, giếng đào, giếng khoan Nhân dân tự đầu tư.

4.3.    Cấp điện: Trên địa bàn huyện có trạm biến áp trung gian 220kV được đấu nối từ trạm 500kV Pleiku cung cấp điện qua các trạm 1 lOkV Krông Búk, Hòa Bình, EaKar, Cư Kuin,..và cấp cho tỉnh Đắk Nông. Hiện tại huyện đang sử dụng nguồn điện sau trạm 1 lOkV, gồm 02 trạm biến áp 35kV và 176 trạm 22kV. Những năm qua được sự quan tâm đầu tư, ngành điện có bước phát triển nhanh góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, điện khí hóa nông thôn. Hiện nay có 07/07 xã đã có lưới điện quốc gia (đạt tỷ lệ 100%), 98% số hộ gia đình được sử dụng điện, trong đó số hộ sử dụng điện thường xuyên và an toàn là 95% số hộ sử dụng điện.

4.4.    Cấp nước: Trên địa bàn huyện có 02 công trình cấp nước tập trung có quy mô lớn và 13 công trình cấp nước phân tán tại các điểm dân cư. Tỷ lệ người dân sử dụng nước họp vệ sinh trên địa bàn huyện năm 2021 là 92%.

4.5.    Thoát nước: Chủ yếu ở các chợ, dọc theo các tuyến giao thông chính, khu vực xã Pơng Drang, trung tâm huyện và một số khu vực dân cư nông thôn tập trung đã được đầu tư hệ thống thoát nước mưa. Tuy nhiên, hệ thống thoát nước chưa hoàn chỉnh và đầy đủ.

4.6.    Bưu chính viễn thông, phát thanh truyền hình: Mạng lưới viễn thông VNPT, Mobile, Viettel, EVN,.. đã phủ sóng đến các xã trong huyện. Mạng lưới bưu điện văn hóa xã được mở rộng, đáp ứng một phần về nhu cầu thông tin cho Nhân dân; 100% các thôn, buôn có máy điện thoại; 100% xã có mạng Intenet. Hoạt động thông tin truyền thông, truyền thanh - truyền hình được triển khai hiệu quả, thời lượng, chất lượng phát sóng được đảm bảo và nội dung các chương trình ngày càng phong phú, phục vụ kịp thời công tác tuyên truyên các nhiệm vụ chính trị và yêu câu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của địa phương.

5.    về công tác quốc phòng, an ninh huyện Krông Búk

-    về quốc phòng: Tình hình quốc phòng, an ninh luôn được giữ vững, ổn định. Các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong lĩnh vực quân sự đều đạt yêu cầu đề ra. Tổ chức thực hiện nghiêm chê độ trực săn sàng chiên đâu ở trạng thái thường xuyên từ huyện đên cơ sở theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh. ƯBND huyện đã chỉ đạo cho quân báo, tổ trinh sát và các lực lượng khác tăng cường xuống địa bàn, đặc biệt là các xã trọng điểm, tiềm ẩn yếu tố phức tạp để kịp thời nắm tình hình diễn biến tại cơ sở, đảm bảo giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa bàn; công tác tuyển quân hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu tỉnh giao; tiếp tục củng cố và tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; tăng cường công tác phòng, chống âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

-    về an ninh trật tự: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản ổn định. Tăng cường chỉ đạo lực lượng nắm tình hình, đấu tranh vô hiệu hóa và xử lý đối với hoạt động của các cở sở ngầm Fulro, các hoạt động tôn giáo trái pháp luật hoặc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, làm mất ổn định an ninh trật tự trên địa bàn. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội ở khu dân cư được duy trì và thực

k hiện có hiệu quả. Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên tất cả các lĩnh vực, tỷ lệ phá án hình sự hàng năm đạt trên 92%; các sự kiện chính trị, hoạt động văn hóa, xã hội, ngày lễ và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia được tổ chức bảo đảm an toàn.

6.    về tổ chức bộ máy cán bộ, công chửc huyện Krông Búk

Số đại biểu HĐND huyện Krông Búk là 32 người, trong đó (trình độ sau đại học 06 đại biểu, đại học 25 đại biểu, trung cấp 01 đại biểu; cao cấp chính trị 29 đại biểu, trung cấp chính trị 01 đại biểu). ƯBND có 16 thành viên. Cán bộ, công chức công tác tại ƯBND huyện 86 người (trình độ sau đại học là 05 người, đại học là 74 người, cao đẳng, trung cấp 7 người; cao cấp chính trị 23 người; trung cấp chính trị 14 người).

Tổng số đại biểu HĐND cấp xã có 179 đại biểu, cơ cấu của HĐND cấp xã gồm: Đại biểu HĐND, Thường trực HĐND, các ban của HĐND (Ban pháp chế; Ban Kinh tế - xã hội: Mỗi ban gồm có trưởng ban, 01 phó trưởng ban và các ủy viên, số lượng ủy viên của các ban do HĐND cấp xã quyết định từ 3 đến 5 người và đều do cán bộ xã kiêm nhiệm).

‘           ' UBND cấp xã có tổng số 32 thành viên. Cán bộ, công chức cấp xã có 117 người:

gồm 74 cán bộ, 43 công chức (trình độ sau đại học 02 người, đại học 85 người, cao đẳng, trung cấp 30 người; cao cấp chính trị 09 người, trung cấp chính trị 76 người).

Lấy link copy
In Gửi Email
THỐNG KÊ TRUY CẬP

Hôm nay:

Hôm qua:

Trong tuần:

Tất cả:

Thống kê hồ sơ
ipv6 ready
Chung nhan Tin Nhiem Mang